Ths. Bs. Bùi Hải Bình
Khoa Cơ Xương Khớp - Bệnh viện Bạch Mai
Viêm khớp nhiễm khuẩn (VKNK- septic arthritis) hay viêm khớp sinh mủ (pyogenic arthritis) là viêm khớp do vi khuẩn sinh mủ không đặc hiệu; không phải do lao, phong hay do nấm, ký sinh trùng hay virus gây nên.
Nguyên nhân
Hay gặp nhất là do tụ cầu đặc biệt là tụ cầu vàng (50-70% trường hợp), liên cầu, phế cầu, lậu cầu, não mô cầu…(về VKNK do lậu cầu, não mô cầu đã có bài riêng)
Ngoài ra còn các vi khuẩn gram âm (15%), E. coli, thương hàn, trực khuẩn mủ xanh, Haemophilus influenza. Có khoảng 10% trường hợp nhiễm đồng thời nhiều loại vi khuẩn, thường gặp sau chấn thương
Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng lâm sàng
Toàn thân có hội chứng nhiễm trùng: sốt, tình trạng nhiễm trùng
Tại chỗ biểu hiện sưng nóng đỏ đau tại một hay vài khớp
Xét nghiệm máu có thể có bạch cầu tăng, tỷ lệ bạch cầu trung tính tăng, máu lắng, protein C phản ứng tăng
Soi, cấy máu, cấy dịch khớp có thể phát hiện vi khuẩn gây bệnh
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như Xquang, siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ… cho phép chẩn đoán bệnh cũng như phát hiện các biến chứng của bệnh
Điều trị bệnh VKNK
Nguyên tắc
Chẩn đoán bệnh sớm, dùng ngay kháng sinh đường tĩnh mạch, dẫn lưu mủ khớp khi cần thiết, bất động khớp tương đối có thể ngăn chặn được tình trạng huỷ hoại khớp
Thực hiện ngay việc cấy máu, lấy dịch khớp, làm xét nghiệm dịch khớp nhanh bằng phương pháp soi tươi nhuộm gram tìm vi khuẩn. Căn cứ kết quả soi tươi nhuộm gram kết hợp với các yếu tố nguy cơ dự đoán chủng vi khuẩn từ đó lựa chọn ngay kháng sinh thích hợp- trước khi có kết quả cấy máu hoặc dịch khớp (thường có sau 3-5 ngày hoặc lâu hơn tuỳ loại vi khuẩn). Lưu ý việc sử dụng kháng sinh tiêm trực tiếp vào khớp cần tránh vì tác dụng không tốt hơn, thậm chí có thể gây nên tình trạng viêm khớp do tinh thể thuốc.
Điều trị cụ thể
a) Kháng sinh
- Khi chưa có kết quả cấy máu, cấy dịch khớp và kháng sinh đồ, soi tươi nhuộm gram dịch khớp âm tính: dùng ngay kháng sinh cephalosporin thế hệ 3 đường tĩnh mạch (TM) như cephotaxim 3g/ngày chia 3 lần (cách 8 giờ một lần), hoặc ceftriaxon 1-2 g một lần/ngày có thể bao phủ đầy đủ các nhiễm vi khuẩn thông thường (cộng đồng) ở người lớn
- Trường hợp soi tươi nhuộm gram dịch khớp phát hiện vi khuẩn gram dương: oxacillin hoặc nafcillin 2g mỗi 6 giờ một lần (8 g/ngày), hoặc clindamycin 2,4g tiêm tĩnh mạch/ngày chia 4 lần (mỗi 6 giờ một lần)
- Nếu nghi ngờ nhiễm tụ cầu vàng kháng kháng sinh (ví dụ VKNK mắc phải ở bệnh viện) thì dùng vancomycin 2g/ngày chia hai lần (pha với dung dịch đẳng trương truyền tĩnh mạch)
- Những bệnh nhân nghi nhiễm trùng trực khuẩn mủ xanh (P. aeruginosa) hoặc nhiễm trùng khớp khi đang dùng thuốc khác đường truyền tĩnh mạch cần phối hợp thêm kháng sinh nhóm aminoglycosid (ví dụ gentamycin 3 mg/kg/ ngày- dùng một lần tiêm bắp vào buổi sáng) hoặc cephalosporin thế hệ 3 (ví dụ ceftriaxon 1-2 g tiêm tĩnh mạch một lần trong ngày)
- Trường hợp cấy dịch khớp hoặc cấy máu dương tính thì việc điều trị theo kháng sinh đồ:
+ Với VKNK do tụ cầu vàng nhậy cảm với kháng sinh thì dùng oxacillin, hoặc nafcillin, hoặc clindamycin như trên. Trường hợp tụ cầu vàng kháng methicillin thì dùng vancomycin 2g/ngày chia 2 lần với thời gian khoảng 4 tuần.
+ VKNK do phế cầu hoặc liên cầu: nếu vi khuẩn nhậy với penicillin thì dùng penicillin G 2 triệu đơn vị tiêm tĩnh mạch mỗi 4 h trong 2 tuần. Nếu do H. influenzae và S. pneumoniae kháng penicillin thì điều trị bằng ceftriaxon 1-2 g một lần /ngày hoặc cefotaxim 1 g 3 lần/ngày trong 2 tuần.
+ Phần lớn VKNK do vi khuẩn gram âm có thể chữa bằng một kháng sinh cephalosporin thế hệ 2 hoặc 3 tiêm tĩnh mạch trong 3-4 tuần hoặc thuốc nhóm fluoroquinolon như levofloxacin 500mg tiêm tĩnh mạch hoặc uống mỗi 24 h.
+ VKNK trực khuẩn mủ xanh nên điều trị ít nhất 2 tuần phối hợp aminoglycosid với một kháng sinh penicillin phổ rộng như mezlocillin 3g tiêm tĩnh mạch mỗi 4 h, hoặc ceftazidim1g mỗi 8h. Thời gian dùng thuốc trong khoảng 2 tuần, sau đó dùng kháng sinh fluoroquinolon như ciprofloxacin 750 mg uống 2 lần /ngày đơn độc hoặc phối hợp với một thuốc nhóm penicillin phổ rộng như trên, hoặc penicillin phổ rộng phối hợp một thuốc nhóm aminoglycosid.
- Thời gian điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn tuỳ loại vi khuẩn, độ nhậy cảm- tình trạng kháng thuốc…Thông thường khoảng từ 1-2 tuần truyền tĩnh mạch sau đó chuyển sang đường uống bằng kháng sinh thích hợp. Liệu trình điều trị thường từ 2- 4 tuần.
b) Dẫn lưu mủ và các chất bẩn bên trong dịch khớp rất cần thiết trong điều trị. Liệu pháp này có tác dụng giảm đau, giảm nguy cơ tạo vách ngăn, giảm naguy cơ hoại tử do làm giảm áp lực trong khớp, loại bỏ nhứng chất gây viêm, loại bỏ một phần vi khuẩn trong khớp. Thậm chí chỉ bằng hút dịch khớp trong trường hợp khớp không tạo vách ngăn cũng cho kết quả tốt
c) Nội soi rửa khớp: có thể tiến hành ngay hoặc sau khi hút dịch khớp không có kết quả
d) Trong một số trường hợp cần phẫu thuật mở khớp: để loại bỏ vách ngăn cũng như màng hoạt dịch, sụn khớp hay phần xương bị nhiễm khuẩn. Phẫu thuật mở khớp là điều trị tốt nhất cho VKNK tại khớp háng, đặc biệt ở trẻ em- đối tượng chỏm xương đùi dễ bị đe doạ bởi tình trạng nhiễm khuẩn
e) Không cần thiết bất động khớp trong VKNK ngoại trừ chỉ định trong trường hợp bệnh nhân rất đau mà điều trị thuốc toàn thân chưa khống chế được
Lưu ý tập thụ động từng bước cho bệnh nhân có tác dụng chống dính khớp, tuy nhiên cần tránh dồn lực nên khớp tổn thương trong trường hợp triệu chứng viêm chưa kiểm soát tốt
Tiên lượng
Hầu hết VKNK do liên cầu khỏi không để lại di chứng
Tuy nhiên VK do trực khuẩn gram âm hoặc do tụ cầu nói chung tiên lượng kém, thường bệnh nhân vẫn đau và hạn chế vận động dù tình trạng nhiễm khuẩn đã được khống chế
Những trường hợp VKNK điều trị muộn (thường sau 7 ngày) cũng tiên lượng xấu hơn. Trường hợp tổn thương khớp háng tiên lượng xấu hơn các khớp khác
Dự phòng
Thực hiện vô trùng tuyệt đối khi làm các thủ thuật, phẫu thuật tiến hành tại khớp. Điều trị tốt các nhiễm khuẩn tại các cơ quan khác, đặc biệt tại da, phần mềm và xương.
Bookmarks