Khác với đột quỵ thiếu máu não luôn được quan tâm một cách đặc biệt, thể hiện qua vô số các thử nghiệm lâm sàng nhắm đến. Số phận xuất huyết não (XHN) lại bị đối xử hết sức bạc bẽo, số thử nghiệm lâm sàng RCT về bệnh lý này chỉ đếm không bằng đầu ngón tay. Có 2 lý do làm cho các chuyên gia đột quỵ “thờ ơ” đến như vậy.
Thi thoảng mình vẫn xem được các đơn thuốc của một số người bệnh với chẩn đoán thiếu máu cơ tim mà không có bất cứ bằng chứng nào chứng minh điều đó hoặc nếu có thì lại không rõ ràng. Trong đơn thuốc, aspirin là loại thuốc thường thấy nhất.
Trong các hướng dẫn hiện nay, tiêu huyết khối đường tĩnh mạch được áp dụng để điều trị đột quỵ cấp chỉ khi có thể xác định được chắc chắn rằng thời gian kể từ khi khởi phát triệu chứng tới khi bắt đầu tiêu huyết khối ít hơn 4,5 giờ.
Lo ngại về việc sử dụng adrenalin (epinephrine) như một biện pháp điều trị cho các trường hợp ngưng tim ngoài bệnh viện đã khiến Ủy ban Liên lạc Quốc tế về Hồi sức (International Liaison Committee on Resuscitation/ILCOR) kêu gọi một thử nghiệm lâm sàng đối chứng để xác định xem việc sử dụng adrenalin có an toàn và hiệu quả ở những bệnh nhân như vậy hay không.
Lược dịch buổi trò chuyện của BS Naveen Pereira, trung tâm tim mạch Mayo Clinic, Rochester với BS Carole Warnes - chuyên khoa bệnh tim bẩm sinh ở người lớn, trưởng ban biên tập khuyến cáo về bệnh tim bẩm sinh ở người lớn của AHA/ACC năm 2008.
Tỷ lệ người mắc tăng huyết áp ở Hoa Kỳ cũng như trên toàn thế giới rất cao, và điều trị tăng huyết áp là lý do phổ biến nhất của việc người lớn (không mang thai) đi khám và dùng thuốc theo đơn ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, khoảng một nửa số người bị tăng huyết áp không được kiểm soát huyết áp cẩn thận.
Nguy cơ ung thư vú cao hơn ở những phụ nữ đang sử dụng hoặc gần đây có sử dụng các biện pháp ngừa thai bằng hormon hiện đại, và yếu tố nguy cơ này tăng lên khi thời gian sử dụng lâu hơn; tuy nhiên, sự gia tăng tuyệt đối nguy cơ là nhỏ.
Tư thế nằm ngửa với đầu bằng đã được ưa thích hơn đối với bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp tính bởi vì nó làm tối ưu hóa tưới máu não. Tuy nhiên, lợi ích của việc duy trì tư thế đầu bằng trong bệnh cảnh này vẫn chưa được chứng minh.
Điều trị kết hợp ba thuốc chống đông (triple antithrombotic therapy) bằng warfarin cộng với hai thuốc kháng tiểu cầu là tiêu chuẩn điều trị sau can thiệp động mạch vành qua da (percutaneous coronary intervention/PCI) đối với bệnh nhân có rung nhĩ, nhưng biện pháp điều trị này lại liên quan tới nguy cơ chảy máu cao.
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh tim mạch thường gặp và là vấn đề lớn của xã hội vì biến chứng của bệnh có khả năng gây tử vong và và tàn phế ở người lớn tuổi. Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, tỉ lệ mắc bệnh tăng huyết áp ngày càng cao.
Hemophilia A có đặc điểm là chảy máu tự phát hoặc chảy máu sau chấn thương gây ra do suy giảm hoạt động của yếu tố đông máu VIII. Việc điều trị chuẩn hiện nay cho bệnh nhân hemophilia A với thể chảy máu nặng là truyền tĩnh mạch dự phòng yếu tố VIII từ 2 đến 3 lần mỗi tuần.
Nhau thai (placenta, afterbirth) có nhiệm vụ cung cấp chất dinh dưỡng và oxy cho bào thai. Khi xảy ra vấn đề liên quan tới chức năng của nhau thai, bào thai có thể không phát triển tốt và người mẹ có thể xuất hiện tăng huyết áp (tiền sản giật, preeclampsia). Vấn đề liên quan tới nhau thai ảnh hưởng tới hoặc gặp phải ở 10% các trường hợp mang thai. Hậu quả thường nhỏ nhưng đôi khi chúng có thể rất nghiêm trọng đối với cả mẹ và con.
Phân tích ADN có nguồn gốc từ Epstein–Barr virus (EBV) trong các mẫu huyết thanh rất hữu ích trong việc sàng lọc ung thư biểu mô vòm mũi họng không có triệu chứng giai đoạn sớm.
Ngày 20 tháng 7 và ngày 3 tháng 8 năm 2017, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Quang (Bộ môn Tim mạch - Trường Đại học Y Hà Nội; Đơn vị Chăm sóc Mạch vành C7 - Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai) đã báo cáo hai chủ đề liên quan tới hội chứng vành cấp tại Khoa Cấp cứu - Bệnh viện Bạch Mai.
Sốc giãn mạch không đáp ứng với các thuốc co mạch liều cao liên quan tới tỷ lệ tử vong cao. Hiệu quả của angiotensin II trong điều trị bệnh nhân có tình trạng này được nghiên cứu trong thử nghiệm ATHOS-3, đây là thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm giai đoạn III về hiệu quả của LJPC-501 (angiotensin II) trong điều trị bệnh nhân sốc giãn mạch kháng với catecholamine [1].
Chú ý: không đọc bài này trước khi ăn sáng -- you are warned. Hôm qua, tôi có dịp đi nghe một bài giảng rất thú vị về microbiome, và một nghiên cứu làm cả khán phòng ngạc nhiên. Có thể nói rằng hệ vi sinh vật là một "frontier" của y học hiện đại, có thể là biên giới sau cùng mà y học sẽ dành nhiều thời gian trong tương lai trên hành trình chinh phục bệnh tật.
Chảy máu não (ICH) chiếm 10 - 30% tất cả các loại đột quỵ, và nó ảnh hưởng tới trên 60.000 người tại Mỹ hàng năm[1]. Kết cục lâm sàng của chảy máu não xấu hơn một cách có ý nghĩa so với đột quỵ tắc mạch não.
Bệnh động mạch chi dưới mạn tính, thường do xơ vữa mạch máu, có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Theo thống kê, năm 2003, tỉ lệ bệnh nhân bị bệnh động mạch chi dưới chỉ chiếm 1,7% bệnh nhân vào viện Tim mạch Việt Nam. Năm 2007, tỉ lệ này đã tăng lên 3,4%.
Y khoa là một lĩnh vực khoa học tự nhiên, để có thể trở thành người bác sĩ giỏi phục vụ vì lợi ích của cộng đồng thì chúng ta phải thực hành dựa trên bằng chứng khoa học.
Thay van động mạch chủ (ĐMC) qua đường ống thông (TAVI) là kỹ thuật mới được chỉ định cho các bệnh nhân hẹp khít van động mạch chủ, nhưng không thể phẫu thuật hoặc nguy cơ phẫu thuật cao.
Y khoa là một lĩnh vực khoa học tự nhiên, để có thể trở thành người bác sĩ giỏi phục vụ vì lợi ích của cộng đồng thì chúng ta phải thực hành dựa trên bằng chứng khoa học.
Cùng với sự gia tăng tỉ lệ mắc của bệnh Đái tháo đường (ĐTĐ), tỉ lệ hiện hành của bệnh Võng mạc Đái tháo đường (VMĐTĐ) và nguy cơ mù lòa do VMĐTĐ trên toàn thế giới và ở Hoa Kỳ có xu hướng gia tăng đáng kể.
Siêu âm bào thai bị lây truyền dọc (vertical transmission) vi-rút Zika gây dị tật đầu nhỏ/bệnh não nhỏ (microcephaly). (a) Bình diện vòng đầu trước (anterior coronal view) cho thấy giãn não thất không đối xứng nặng kèm với sự hình thành nang (mũi tên).
Thông tin về y tế nổi bật trong những ngày qua là về vi-rút Zika. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã triệu tập cuộc họp khẩn cấp về vi-rút Zika tại Geneva hôm 01/02/2016 sau khi quan sát thấy sự gia tăng số ca dị tật và bất thường về thần kinh ở trẻ sơ sinh.
Tóm tắt bằng chứng về can thiệp động mạch cảnh sớm đối với hẹp động mạch cảnh gần đây dựa vào phân tích tổng hợp các nguy cơ hiện tại.
Hội nghị can thiệp tim mạch (25/102015) - Cập nhật can thiệp nội mạch trong nhồi máu não cấp.
Ấn bản “Những điểm nổi bật trong hướng dẫn” này tổng hợp những vấn đề và những thay đổi chủ yếu trong “Hướng dẫn cập nhật của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) cho hổi sinh tim phổi (CPR) và cấp cứu tim mạch (ECC) năm 2015”.
Đối với người lớn bị viêm phổi mắc phải cộng đồng (CAP) phải nhập viện, điều trị corticoid đường toàn thân có thể giảm khoảng 3% tỉ lệ tử vong, giảm khoảng 5% nhu cầu thở máy và giảm khoảng 1 ngày nằm viện.
Với những ưu điểm vượt trội như tỷ lệ đáp ứng bền vững về mặt virus học > 90%, thời gian điều trị ngắn 2-3 tháng, ít tác dụng phụ và dễ sử dụng, các thuốc DAA thế hệ 2 sẽ là điều trị chủ lực cho viêm gan virus C trong tương lai.
Các virus Corona là các virus ARN thường gây bệnh đường hô hấp trên nhẹ. Sự xuất hiện của đại dịch SARS (severe acute respiratory syndrome – hội chứng hô hấp cấp nặng) năm 2003 đã thu hút sự chú ý toàn cầu đối với các virus này.
Cụm từ nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) nên được sử dụng khi có chứng cứ về hoại tử cơ tim trong tình huống lâm sàng phù hợp với thiếu máu cục bộ cơ tim cơ tim (TMCBCT) cấp
Tiêu sợi huyết não thất là kỹ thuật sử dụng thuốc tiêu sợi huyết (rt-PA) bơm vào não thất qua dẫn lưu não thất để làm tiêu nhanh máu đông trong não thất (đặc biệt là não thất 3 và não thất 4), tạo thuận làm thông sớm hệ thống não thất phía dưới và từ đó tránh được biến chứng giãn não thất
Cân bằng nội môi acid-base rất quan trọng để duy trì sự sống. Nhận định chính xác và kịp thời rối loạn acid-base có thể cứu bệnh nhân khỏi tử vong nhưng việc đưa ra được chẩn đoán đúng có thể là một thách thức. Ba phương pháp chính để định lượng rối loạn acid-base là tiếp cận theo hướng sinh lý học, tiếp cận theo kiềm dư và tiếp cận theo hướng lý-hóa (còn gọi là phương pháp Stewart)
Hội chứng rối loạn tiền đình (RLTĐ) (vestibular disorder) biểu hiện bằng các triệu chứng: chóng mặt, hoa mắt, mất thăng bằng... Bệnh nhân thường mô tả thấy "trời đất quay cuồng", hoặc thấy nhà cửa, đồ vật đảo lộn...
Bài viết “Hệ lụy từ một tình huống sinh khó” của bạn Phạm Khánh Sơn được đăng trên bacsinoitru.vn ngày 6 tháng 2 năm 2015 đã cho chúng ta thấy biến chứng của các kỹ thuật forceps và giác hút để lại những hậu quả nặng nề như thế nào.
Trên số tạp chí The New England Journal of Medicine số mới ra ngày 5/11/2014, nhóm các bác sĩ công tác tại Liberia (Daniel S. Chertow, M.D., M.P.H., Christian Kleine, M.D., Jeffrey K. Edwards, M.D., M.P.H., Roberto Scaini, M.D., Ruggero Giuliani, M.D., và Armand Sprecher, M.D., M.P.H.) đã chia sẻ kinh nghiệm của mình về bệnh Ebola dựa trên quá trình điều trị cho hơn 700 bệnh nhân tại đây (Ebola Virus Disease in West Africa — Clinical Manifestations and Management). Chúng tôi xin dịch bài này để chúng ta cùng tham khảo.
Tài liệu này tóm lược ngắn gọn những thông tin khoa học đã công bố hiện nay về sự lây truyền virus Ebola từ người sang người. Tài liệu này được xây dựng để phục vụ nhân viên y tế và những nhà chuyên môn về y tế công cộng. Đây là phần bổ sung cho nhiều văn bản hướng dẫn mà CDC đã ban hành trực tuyến tại www.cdc.gov/ebola.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu cho rằng chưa thấy xuất hiện chủng virus đột biến làm thay đổi động lực cũng như phương thức lây truyền của virus. Nhưng diễn biến bệnh dịch vẫn đang rất phức tạp, có nguy cơ lây lan toàn thế giới nói chung, cũng như xâm nhập vào nước ta nói riêng.
Gần đây tôi nhận được câu hỏi xoay quanh việc bệnh dại có lây truyền từ người sang người hay không. Để trả lời câu hỏi này, trước tiên tôi xin dịch một đoạn thông tin từ CDC Hoa Kỳ về bệnh dại.
Những thay đổi về hình thái lây truyền bệnh truyền nhiễm là hậu quả quan trọng của sự thay đổi khí hậu. Chúng ta cần phải tìm hiểu thêm về các mối liên hệ nhân quả phức tạp bên dưới và áp dụng những thông tin này vào việc dự đoán các tác động trong tương lai, sử dụng các mô hình lồng ghép hoàn thiện hơn và xác thực hơn.